Suy yếu và chia cắt Tấn (nước)

Cuộc tranh giành giữa các khanh thần

Bài chi tiết: lục khanh

Ngay từ thời Tấn Văn công, Tấn Tương công đã manh nha hình thành thế đứng của các thế tộc làm đại phu trong triều. Không chỉ các dòng họ có công "tòng vong" giúp Văn công trong quá trình lưu lạc 19 năm ở nước ngoài, ngay cả các họ tộc ở lại trong nước phù tá Huệ Công, Hoài công cũng có ảnh hưởng nhất định và vua Tấn phải đóng vai trò dàn xếp hài hòa giữa các họ tộc đó. Trong quá trình đấu tranh để giành quyền lực trong triều, các họ tộc dần dần tiêu diệt lẫn nhau.

Thời Văn công có các họ: Hồ, Loan, Triệu, Tuân, Ngụy, Hàn, Khước, Tiên, Phạm (Sĩ). Đến thời Tấn Tương công (627-621 TCN), họ Hồ bị đuổi ra nước ngoài. Thời Cảnh công (598 – 581 TCN), họ Tiên bị diệt, họ Triệu cũng suýt bị diệt tộc nhưng sau được phục hồi địa vị; đến thời Lệ công (580 – 573 TCN), họ Khước bị diệt; thời Bình công (557 – 532 TCN), họ Loan bị diệt.

Họ Tuân sau đó tách làm hai chi và gọi theo đất được phong, một chi gọi là Trung Hàng, chi kia gọi là Trí. Sau hơn 100 năm đến thời Tấn Bình công, chỉ còn lại 6 dòng họ mạnh nhất duy trì được quyền lực là: Ngụy, Hàn, Triệu, Phạm, Trung Hàng, Trí mà sử sách vẫn gọi là lục khanh.

Vua yếu tôi mạnh

Nước Tấn trong quá trình phát triển ngày một lớn mạnh, đất đai rộng mở, nhân lực dồi dào. Ngoài các vua giỏi như Văn Công, Tương Công, Điệu công, các vua Tấn khác đều tầm thường nhưng nhờ bầy tôi dưới quyền vua Tấn cũng có nhiều họ tộc tài giỏi, giúp vua Tấn chiếm ưu thế trong các cuộc chiến với các chư hầu mạnh như Tần, Tề, Sở. Đến cuối thời Xuân Thu, Tấn là nước lớn nhất trong các chư hầu.

Các đại phu mạnh lên, trong triều lại xảy ra thí nghịch và phế lập. Năm 606 TCN, Tấn Linh công bỏ bễ chính sự, mưu giết bề tôi can thẳng họ Triệu, bị họ Triệu giết. Năm 573 TCN, họ Loan và họ Trung Hàng giết Lệ công.

Đến thời Bình công, việc tranh chấp giữa các đại phu ngày càng gay gắt nhưng vua Tấn không thể đóng vai trò can thiệp hay dàn hòa giữa các họ mà hoàn toàn bị các họ chi phối. Những người không cùng cánh với lục khanh đều bị 6 họ tìm cách tiêu diệt.

Sáu họ còn ba

Xem chi tiết: Ngụy (nước), Hàn (nước), Triệu (nước)

Năm 497 TCN, giữa lục khanh nổ ra chiến tranh. Họ Phạm và họ Trung Hàng liên kết đánh họ Triệu. Họ Triệu lấy danh nghĩa Tấn Định công, liên kết với họ Hàn và họ Ngụy đánh hai họ kia. Trung Hàng Di và Phạm Cát Xạ chạy đến Triều Ca[5] cố thủ. Năm 492 TCN, thành Triều Ca vỡ, họ Phạm và họ Trung Hàng phải bỏ chạy sang nước Tề lưu vong. Từ đó nước Tấn chỉ còn lại 4 họ nắm quyền trong triều là: Trí, Triệu, Hàn, Ngụy.

Năm 475 TCN, Tấn Định công chết, con là Xuất công lên thay. Bốn quan khanh bàn nhau chia đất của hai họ Phạm và Trung Hàng, không đếm xỉa tới vua Tấn. Phần đất của Tấn Xuất công từ đó lại không bằng bốn họ. Vua Tấn nổi giận, sai người sang liên kết với nước Tề để trị tội 4 họ. Nhưng lúc đó nước Tề cũng đang nằm trong tay họ Điền, vua Tề chỉ làm vì, còn họ Điền cũng mưu chiếm nước Tề như các quan khanh nước Tấn nên không ủng hộ vua Tấn.

Năm 458 TCN, bốn họ biết được ý định của vua Tấn, bèn đánh đuổi vua Tấn đi. Vua Tấn phải chạy sang nước Tề và chết giữa đường, nên mới được đặt thụy hiệu là Xuất công. Họ Trí lập một người trong họ tộc nước Tấn là chắt của Tấn Chiêu Công lên ngôi, tức là Tấn Ai công.

Bấy giờ họ Trí có thế lực nhất, được phong tước bá, 3 họ kia mới chỉ có tước tử. Trí bá tên là Tuân Dao, muốn chiếm cả nước Tấn, nên trước hết thực hiện kế "tằm ăn lá dâu", ra lệnh ép 3 họ kia cùng hiến đất để thôn tính dần. Họ Ngụy và họ Hàn chịu theo nhưng họ Triệu không chịu. Trí bá Tuân Dao bèn hợp quân với họ Hàn và Ngụy đánh Triệu. Triệu Vô Tuất rút về cố thủ ở Tấn Dương.

Quân 3 họ vây đánh Tấn Dương 1 năm không phá được. Năm 454 TCN, khi thành Tấn Dương nguy cấp, Triệu Vô Tuất sai người ra thuyết phục họ Ngụy và họ Hàn về nguy cơ "chia đũa để bẻ" của Trí Bá đối với 3 họ. Hàn và Ngụy bất đắc dĩ mang quân theo Tuân Dao, nay hiểu ra bèn trở giáo cùng Triệu đánh úp Trí Bá. Trí bá trở tay không kịp, bị giết, họ Trí bị diệt. Ba họ Hàn, Triệu, Ngụy cùng chia đất của Trí Bá.

Năm 440 TCN, Tấn Ai công chết, con là U công lên nối ngôi. Vua Tấn lúc đó chỉ còn đất Giáng và đất Khúc Ốc, còn lại đất đai đều thuộc về 3 họ Hàn, Triệu, Ngụy mà sử sách quen gọi là Tam Tấn. Trên thực tế 3 họ đã nắm quyền tự quyết, không còn theo mệnh lệnh hay cần tới danh nghĩa của vua Tấn nữa. Chính vua Tấn phải đến triều kiến 3 họ chứ không phải 3 họ đến triều kiến vua Tấn.